top of page

Loa điện động, loa nén, loa thùng, sử dụng và bảo quản loa

  • Writer: Thanh ÂM
    Thanh ÂM
  • Apr 26, 2018
  • 17 min read

Loa là thiết bị biến đổi tín hiệu điện thành các dao động âm thanh.

Đặc tính kỹ thuật loa

Độ nhạy trục loa N: Là tỉ số giữa thanh áp hiệu dụng P0 do loa tạo ra tại điểm cách loa 1m trên trục loa và căn bậc hai của công suất điện đưa vào:

Trong đó: P0 – thanh áp trục loa; P – công suất điện

Quan hệ giữa độ nhạy trục loa và tần số thường được xét ở điều kiện công suất điện không đổi p=const. Nếu như ở tần số bất kỳ, đưa vào loa một điện áp không đổi thì:

Trong đó: Z1000 là trở kháng vào ở tần số 1000Hz) thì thanh áp tạo ra trong trường hợp đó gọi là thanh áp chuẩn Pc

Hiệu suất của loa η: Là tỉ số phần trăm giữa công suất âm thanh do loa bức xạ Pa và công suất điện tiêu thụ p:


η=𝑃𝑎/𝑃.100% hiệu suất của loa khoảng một vài phần trăm.

Đặc tuyến tần số của loa: Là đồ thị miêu tả quan hệ giữa thanh áp chuẩn (db) và tần số dao động âm thanh (kh). Hay nói, đặc tuyến tần số là phạm vi tần số âm thanh mà hệ thống loa có thể tái tạo lại một cách bằng phẳng và chính xác

Đặc tuyến tần số biểu thị tính trung thực. Loa có chất lượng cao thì dải tần số công tác rộng và độ không đồng đều của đáp tuyến tần số càng ít, màng rung càng to tiếng trầm càng rõ. Công suất danh định: Là công suất lớn nhất mà loa có thể bức xạ mà vẫn đảm bảo được các chỉ tiêu kỹ thuật cho trước như: độ méo, dải tần, rung động cơ học… Đơn vị tính công suất là vôn-am-pe (VA). Đặc tuyến hướng: Được xác định bằng tỉ số giữa thanh áp do loa bức xạ. Dưới một góc  nào đó so với trục loa P và thanh áp trên trục loa P khi đo ở cùng một khoảng cách: 𝐻0 = 𝑃/P0

Trở kháng danh định: là trở kháng đo được khi đưa vào loa một dòng điện âm tần hình sin có tần số quy định (thường 1000Hz hay 400Hz). Mức điện áp đưa vào là 30% điện áp danh định.Trở kháng thay đổi theo tần số.

Một số loại loa

Loa điện động

Khối nam châm (Magnet): Kích cỡ khối nam châm cho biết có bao nhiêu từ lực (sức mạnh từ trường) có thể dùng cho việc vận hành. Khối lượng nam châm càng lớn cho biết chiếc loa có khả năng vận hành với cường độ cao và có nhiều năng lượng âm thanh hơn.

Cuộn dây động lực (Voice coil): Cuộn dây động lực (Voice coil) là một cuộn dây quấn trên một ống tròn bằng plastic hoặc nhôm, giấy hay bằng chất liệu sợi thủy tinh (fiberglass). Loại dây được dùng có thể bằng nhôm (nhẹ, dễ tỏa nhiệt) hoặc đồng (dẫn điện mạnh hơn nhôm nhưng nặng hơn), có tiết diện mặt cắt dây hình tròn hay dẹt. Cuộn dây được phủ keo cố định với lõi ống và là bộ phận chịu tải cao khi có dòng điện tín hiệu đi qua. Kích cỡ của cuộn dây lớn và cấu tạo bằng sợi dây quấn tiết diện lớn cho ta biết loa chịu được công suất cao. Trong khi hoạt động sẽ tỏa ra nhiều nhiệt và cần phải tiêu tán đi, sự tiêu tán này tùy thuộc vào lõi cuộn dây bằng nhôm hay giấy, kích thước khối nam châm và các khối sắt dẫn từ bao quanh.

Khe từ (Gap): Khối nam châm được các khối sắt kết hợp tập trung từ trường lại vào một khe rất hẹp, khe càng hẹp từ trường được tập trung càng mạnh và cuộn dây động lực được đặt vào khe từ trường hẹp này để tạo ra lực đối kháng với nam châm thành chuyển động tới lui. Nếu khe từ quá hẹp, cuộn dây dễ bị va chạm vào khối sắt chung quanh gây ma sát làm méo tiếng và nóng lên. Nếu quá rộng, từ lực sẽ rất yếu, tổn hao sẽ lớn. Khe từ là thành phần được làm rất chính xác và phải chống bụi thật tốt, mọi vật thể lạ như bụi hay các mạt sắt nhỏ lọt vào sẽ cản trở dao động cuộn dây và rất khó làm sạch vì bị hút chặt vào khe nam châm. Cần chú ý đến điều này khi bảo quản củ rời hay phải quấn sửa chữa lại các loa bị cháy, hỏng.

Các thỏi sắt dẫn từ lực (Pole Pieceand Plates): Là các thỏi sắt được dập hình học thích hợp để ghép với khối nam châm tạo thành đường truyền dẫn từ lực vào khe từ, đây cũng là bộ phận dùng giải nhiệt sinh ra từ cuộn dây động lực khi hoạt động và tỏa nhiệt ra không khí.

Màng rung (Cone): Màng rung được làm bằng giấy hay một chất liệu đặc biệt tùy theo công dụng và giá tiền, nó được dán dính vào cuộn dây động lực tạo thành một cái bơm ép không khí để phát ra âm thanh. Thông thường màng rung càng lớn sẽ cho nhiều tiếng trầm, tần số thấp và công suất âm thanh lớn.

Màng nhún (Surround): Là bộ phận giữ chặt màng rung vào vành khung sắt, cố định màng rung theo chiều ngang nhưng rất linh động theo chiều dọc, cũng là bộ phận kiểm soát biên độ dao động của màng rung tới lui và dập tắt các dao động của màng rung khi tín hiệu đổi cực tính. Màng nhún cấu tạo bằng chất liệu mút, cao su, vải, giấy, rất đàn hồi.

Màng nhện (Spider): Cấu tạo thường bằng vải ép với keo tạo thành những đường vòng đồng tâm rất linh động theo chiều dọc nhưng cố định theo chiều ngang. Màng nhện được dán chặt với cuộn dây động lực để cố định cuộn dây khi dao động khe từ, cũng là bộ phận kết hợp với màng nhún để dập tắt các dao động ngoài ý muốn trong khi màng rung chuyển động.

Nguyên lý hoạt động: Khi cho dòng điện âm tần vào loa, tức là dòng điện âm tần đi qua cuộn dây, trong cuộn dây xuất hiện một từ trường. Từ trường cuộn dây sẽ bị từ trường nam châm tác động làm cho cuộn dây chuyển động lên xuống. Sự chuyển động của cuộn dây kéo theo sự chuyển động của màng rung tạo thành một dao động và phát ra âm thanh có quy luật biến đổi theo tín hiệu âm thanh đưa vào.

Loa nén

Loa nén có hai phần: Động cơ và vành, động cơ chính là một củ loa điện động có kết cấu đặc biệt và nhỏ gọn. Trong động cơ có nam châm, khe từ, cuộn dây và màng rung bằng nhựa cứng tròn và lồi. Vành loa thường gồm có 3 ống, ống trong cùng nhỏ, ống ở giữa lớn hơn, ống ngoài cùng to và loe rộng ra.

Khi dòng điện âm tần chạy qua cuộn dây thì làm cho cuộn dây rung lên, truyền rung động đến màng rung. Âm thanh phát ra được phóng mạnh ra phía trước, lần lượt qua ống nhỏ, ống giữa, ống ngoài… làm cho thể tích không khí bị dao động tăng dần lên, tiếng loa phát ra rất to. Loa nén có hiệu suất rất cao, nhưng chất lượng âm thanh kém, dải tần hẹp, thiệt tiếng trầm. Loại này chỉ nên dùng ở ngoài trời, nơi đông người, ồn ào, không nên đặt trong hội trường. Loa nén có các loại công suất khác nhau: 5W, 10W, 15W, 25W, 50W có một số loại công suất lớn tới 300W, 500W, gồm có nhiều động cơ ghép chung vào một vành. Ở nước ta thường dùng nhiều loa nén của trung quốc: Loại 5W có trở kháng 4Ω, loại 10W có trở kháng 8Ω, 15W và 25W có trở kháng 16Ω. Khi đấu các loa này để trang âm trong một phạm vi hẹp thì không cần dùng kèm thêm biến áp. Nếu đặt ở xa máy hàng trăm mét trở lên hoặc mắc lên đường dây truyền thanh thì nhất thiết phải dùng kèm biến áp. Biến áp có cấu tạo, cuộn sơ cấp thường có các đầu 0, 250Ω, 500Ω, 1000Ω, 1500 Ω, 2000Ω. Cuộn thứ cấp có các đầu 0, 8Ω, 16Ω.

Loa 10W hoặc hai chiếc 5W nối tiếp thì đấu vào đầu 0-8Ω, loa 15W và 25W thì đấu vào đầu 0-16Ω. Tùy theo mức trở kháng yêu cầu mà đấu hai đầu 0 và 250Ω (hoặc 500Ω) lên đường dây. Ngoài ra chúng ta dùng khá nhiều loa nén của nhật bản. Loa nén nhật bản cũng tương tự của Trung quốc, có các loại 5W, 10W, 15W, 25W. Các loa 5W, 10W thường có trở kháng 8Ω; 15W, 25W có trở kháng 16Ω. Loa cũng có biến áp để dùng kèm khi đấu ra máy và đấu trên mạng lưới đường dây truyền thanh. Các loa nén còn gọi là loa phản xạ hai lần, vì âm thanh từ động cơ thoát ra theo ống nhỏ ở trong đập vào đáy ống ở giữa, rồi phản xạ lại phía sau lại đập vào đáy ống loa ngoài và phản xạ lần nữa về phía trước.

Loa thùng, loa cột

Là cách gọi tên theo hình dạng và kích thước. Các loa thùng và cột thường bao gồm nhiều củ được bố trí và lắp đặt phù hợp. Phần lớn sử dụng trong hệ thống loa thùng, cột đều là củ điện động. Chúng dùng nam châm và cuộn dây động (voice coil) để làm rung màng loa. Cấu tạo loại này rất kinh điển và không thay đổi bao nhiêu từ khi nó được phát minh năm 1930. Loa điện động cũng có chia ra làm nhiều loại tùy theo dải tần phát, thường rất dễ nhận ra như loa phát tiếng trầm (low) có đường kính lớn, loa phát tiếng bổng (high) có đường kính nhỏ và dùng bộ crrossover (bộ phân chia tần số) dẫn tới các loa.

Loa trầm (Woofer): Tạo ra âm thanh có tần số thấp, tầm hoạt động có hiệu quả thường có tần số khoảng 20Hz-1KHz và có thể mở rộng đến 3KHz. Đường kính loa trầm từ khoảng 10cm đến hơn 40cm. Loại có đường kính từ 20cm đến 30cm thường được lắp trong các thùng loa Hi-Fi dùng trong gia đình.

Loa trung (mid-range): Tạo ra âm thanh trong dãy tần từ 1KHz đến khoảng 8KHz, phạm vi hiệu quả nhất từ 1KHz đến 4KHz. Loa trung thực hiện việc tái tạo lại âm thanh của tiếng hát, giọng nói và hầu hết các nhạc cụ. Đường kính khoảng từ 7cm đến 20cm. Hầu hết các loa trung đều sử dụng màng rung bằng chất liệu giấy hay chất dẻo PP để tạo lại âm thanh. Một số loa có thêm thiết kế có một phễu nhỏ gắn ở vòm chống bụi trung tâm giúp cho sự phân tán âm thanh được rộng hơn.

Loa bổng (treble): Nhóm điện động này có kích thước đường kính khá nhỏ, thường dưới 5cm, cũng dùng chất liệu màng rung bằng giấy hay plastic. Các củ treble dạng này có màng giấy rất mỏng và nhẹ để phát được tốt các tần số cao, phần sau lưng được bọc kín để tránh ảnh hưởng áp suất âm thanh bên trong thùng tác động lên loa treble.

Loa toàn dải (full-range): Toàn dải được thiết kế để tái tạo lại một cách đầy đủ hầu hết phổ âm thanh nghe được. Loa toàn dải thường dung hoà các tính chất phát âm thanh từ loa trầm đến loa treble. Đường kính lớn phát ra quá nhiều tiếng trầm, ngược lại nếu đường kính nhỏ, tần số cao sẽ chiếm ưu thế. Với kích thước đường kính như thế nào để đạt được sự dung hoà? Bose đã nghiên cứu và xác định rằng, với kích thước đường kính là 4.5 inches sẽ đạt được sự dung hoà này và phát được âm thanh tốt nhất theo tiêu chuẩn của IEC (International Electrotechnic al Commission).

Quan sát biểu đồ trên, ta thấy ở tần số cao (high frequency) mức năng lượng có độ suy giảm và thấp hơn ở tần số thấp (Low) và trung (mid), cũng thấy rõ có độ sụt giảm nhanh ở tần số cực thấp (verylow frequency). Biểu đồ đáp tuyến nhìn có vẻ không thẳng (flatness) nhưng tính chất này rất quan trọng. Vì nó thể hiện sự cân bằng tần số với cảm nhận của người nghe tốt nhất ở tất cả các thể loại chương trình biểu diễn, tái tạo lại giọng nói và cả các chương trình trong phòng thu âm.

Bộ phân chia tần số (Crossover): Bộ phân chia tần số là bộ phận mà nhà kỹ thuật không mong muốn nhưng phải chấp nhận. Một chiếc loa có thể tái tạo lại dãy tần số âm tần khá tốt với âm thanh trong trẻo, rõ ràng, không bị biến dạng và độ lớn của cường độ âm thanh cũng vừa đủ nghe, cộng với giá thành hạ. Tuy nhiên trên thực tế không có một loại nào có thể đáp ứng được yêu cầu này. Ta cần ít nhất là hai chiếc driver cho một hệ thống, có thể là nhiều hơn nếu khả năng cho phép: Một củ Woofer (lợi trầm) và một củ Tweeter (lợi bổng). Củ woofer với đường kính lớn tạo ra âm thanh trầm và củ tweeter có đường kính nhỏ hơn tạo ra âm thanh cao, ta gọi hệ thống này là 2-Way (hai đường tiếng).

Mạch chia tần số thụ động (Passive crossover): Mạch chia tần số thụ động passive là loại mạch đơn giản nhất để chia cắt dãy tần ra những đoạn thích hợp, mỗi đoạn chia cắt này sẽ đặt vào một chủng loại loa để tạo lại âm thanh tốt nhất có thể phát được. Mạch chia thụ động không dùng bất cứ nguồn điện nào để hoạt động, nó thụ động bởi vì dùng nguồn tín hiệu trực tiếp từ power ampli, sau khi qua các bộ phận cắt lọc, sẽ cấp vào chiếc loa thích hợp. Mạch chia đơn giản thông dụng nhất chỉ gồm hai bộ phận chính: Một tụ điện (capacitor) nối với củ có tần số cao (treble): Một cuộn dây (inductor) nối với loa trầm (bass): Cuộn dây thì hoạt động ngược lại, cho qua các tín hiệu tần số thấp và ngăn chặn lại các tín hiệu tần số cao (low-pass).

Sự ngăn chặn và cắt các tần số này không diễn biến dứt khoát, nó biến thiên theo mức độ giảm dần theo mỗi bát độ (octave). Sự suy giảm này bắt đầu xảy ra theo một đường dốc gọi là: crossover-slope (đường dốc cắt) được đo đạc bằng dB trên mỗi octave gọi tắt là dB/oct. Đường dốc cắt này có thể thật dốc (nhiều dB/oct) hoặc hơi dài nghiêng thoai thoải (ít dB/oct). Một cách đơn giản dễ hiểu là, cứ mỗi một bộ phận tụ điện hay cuộn dây đặt vào mạch sẽ tạo đường dốc cắt là 6dB/oct và cứ thế, nếu thêm vào hai tụ hay hai cuộn dây đường dốc sẽ là 12dB/oct, 3 là 18dB/oct, 4 là 24dB/oct… Con số những bộ phận tụ hay cuộn dây thêm vào để tạo ra đường dốc nghiêng nhiều hay dài gọi là cấp phân chia (crossover order). Số dB/oct càng lớn (hay cấp phân chia càng lớn) sự điều khiển và vận hành loa càng tốt.

Ta có thể tính toán để tạo ra một hệ thống hai đường tiếng, 3 đường tiếng hoặc hơn nhằm mục đích cung cấp các dãy tần số vào các củ bass, mid, treble.

Tóm lại: Mục đích đầu tiên của mạch là phân chia phổ tần, cung cấp tần số cao vào driver treble, tần số thấp vào driver bass, tần số trung vào driver midle. Thực tế nhất của bất kỳ mạch phân chia là bảo vệ củ treble không bị quá tải ở tần số thấp. Không có bộ lọc phân cách, loa treble sẽ sinh ra độ méo cao, tệ hơn nó sẽ bị tổn thương hay cháy đứt. Mạch chia tần số thụ động sử dụng trong các thùng Hi-Fi dùng trong gia đình, vì nó đơn giản và giá thành hạ và chỉ sử dụng một power ampli cho một cặp loa do mạch chia tần số đã được thực hiện ngay bên trong thùng.

Mạch chia tần số tích cực (Active crossover): Mạch chia tần tích cực phải có nguồn điện cung cấp để hoạt động, thường được lắp vào một cấu trúc có kích thước là một U (Unit: đơn vị không gian của bề dày các thiết bị âm thanh lắp vào trong các kệ máy). Mạch chia tích cực thường được gắn luôn vào các thiết bị âm thanh như máy tăng âm, Mixeraudio…

Mạch chia tần tích cực còn có cách gọi khác là mạch chia tần số điện tử, nó xử lý các tín hiệu trước các power ampli nhận tín hiệu từ mixer xuống, qua các bộ phận điện tử tách chúng ra thành các dãy tần số khác nhau, mỗi dãy tần số này được các power amp riêng biệt khuếch đại lên và truyền tải đến loa. Mỗi dãy tần số khi đã được tách, có thể điều chỉnh được các biên độ lớn nhỏ cho các dãy tần và chọn được vị trí giao điểm của tần số cắt. Một hệ thống hai đường tiếng (2-way) cần một crossover có một điểm cắt tần số (crossover point). Hệ thống (3-way) cần hai điểm cắt, hệ thống (4-way) cần ba điểm cắt…Mạch chia tần tích cực dùng cho hệ thống 2-way còn được gọi là: bi-amp, hệ thống 3-way gọi là: tri-amp,…

Kỹ thuật sử dụng và bảo quản

Kỹ thuật sử dụng

Cần chọn loa thích hợp với yêu cầu sử dụng, những nơi đông người ồn ào như nhà ga, bến xe, công trường…nên sử dụng loại dạng còi (loa nén). Trong hội trường nên sử dụng loại hộp bố trí rải rác hai bên tường hoặc dùng loa cột. Chỉ nên cho hệ thống tiêu thụ từ 40-60% mức công suất danh định để kéo dài tuổi thọ cho và ghi nhớ vài nguyên tắc cơ bản sau:

  1. Loa trầm đặt xuống thấp, càng sát mặt đất càng tốt vì tần số thấp có độ dài sóng âm rất dài và những tần số khi bắt đầu xuống dưới 200Hz không có hướng tính. Khi sóng âm tần số thấp rời khỏi màng rung, nó bị mặt phẳng (mặt đất) phản xạ và kết quả tăng mức âm lượng lên rất đáng kể (cứ một mặt phẳng tăng được 3dB). Nếu có hai mặt, tổng cộng tăng được 6dB. Đặt loa trầm sát mặt đất hay sát vách tường càng tốt, vì nếu đặt cách vách một khoảng bằng ½ đến dưới 3 lần độ dài của bước sóng âm thanh, mặt phẳng này có tác dụng như một nguồn âm bass ảo thứ hai sẽ giao thoa với nguồn âm thật gây nên hiện tượng triệt phase.

  2. Loa trung đặt ở vị trí giữa vì đa số các tần số của giọng nói, các nhạc cụ đều nằm ở khu vực tần số trung (mid-range) và các tần số này có hướng tính cao. Đặt độ cao ở khoảng giữa chiều cao của cột loa sẽ hướng góc phát về khu vực của lỗ tai người nghe và âm thanh nghe được rõ nhất.

  3. Loa bổng đặt ở vị trí cao vì tần số cao có độ dài bước sóng âm rất ngắn, chúng dễ bị phân tán và tiêu hao trong không khí ngay cả lớp khói thuốc và bụi bặm. Nếu chúng ta đặt các loa này thấp, chúng sẽ bị che chắn bởi khoảng không gian phía trước có nhiều vật chướng ngại như đầu người ở hàng trước chẳng hạn, và người đứng phía sau sẽ chẳng nghe thấy gì. Nếu đặt lên cao, góc phủ của loa theo trục đứng vẫn bảo đảm đủ cho những người ở ngay hàng ghế trước nghe tốt và chúng sẽ có độ xuyên thấu xa hơn cho những người ở xa nhất.

Sự đồng phase – ngược phase (in-phase/ outofphase): Khi đấu cho một hệ thống nhiều loa cần chú ý quan trọng vấn đề chúng phải được đấu nối sao cho tạo được đồng phase với nhau. Nghĩa là các cực tính dương và âm ghi chú trên các cọc nối loa phải giống nhau, điều này bảo đảm cho các loa cùng nhận tín hiệu cùng một chiều cực tính, khi chúng ép ra không khí các sóng âm được nén cùng một lúc làm âm thanh được tăng mạnh thêm lên. Nếu đấu dây sai cực tính, chúng sẽ đẩy ra và ép vào ngược với nhau gọi là bị ngược phase (out of phase) sẽ có các vấn đề xảy ra như sau:

  1. Trường hợp củ bass (tần số thấp) không đúng phase: Âm thanh tần số thấp bị triệt mất hoàn toàn, nghĩa là vẫn hoạt động rất mạnh nhưng không nghe được âm thanh phát ra. Nếu không phát hiện được mà cố gắng tăng cường độ của power amp hệ thống sẽ bị quá tải và hư hỏng (cháy, đứt).

  2. Trường hợp các củ mid và treble không đồng phase: Âm thanh vẫn nghe được nhưng chất lượng rất xấu vì bị triệt phase trong không gian do giao thoa mặc dù các loa vẫn được sắp xếp đúng.

Kiểm tra sự đồng pha / ngược pha: Phương tiện dùng để kiểm tra pha của các hệ thống đơn giản chỉ là một cục pin loại 9 volts (nếu dùng cho các driver có công suất lớn từ 150w trở lên), loại pin thường, không phải loại Alkaline (vì Alkaline có dòng điện phóng khá mạnh có thể làm hỏng cuộn coil nếu thử lâu). Đặt cực dương của pin vào cực đỏ của thùng (hoặc loa rời) và cực âm vào cực đen. Nếu màng rung bị đẩy ra phía ngoài, thì cực dương của pin trùng với cực dương của loa. Nếu màng rung bị hút vào cực dương của pin đã đặt vào cực âm của loa.

Ghi nhớ: Cực dương của loa là cực mà đầu dương của pin làm cho màng rung bị đẩy ra. Nếu chỉ dùng kiểm tra các loại loa Hi-Fi thông thường, chỉ cần một cục pin 1,5volt là đủ.

Chú ý: Không dùng phương pháp này để kiểm tra các củ treble, vì màng rung treble rất mỏng manh rất khó quan sát thấy sự dịch chuyển của màng khi kiểm tra bằng nguồn pin. Chỉ có thể xác định bằng vị trí đánh dấu của hãng sản xuất ghi trên cọc nối dây loa.

Bố trí các thùng loa:

Sự phân tán âm thanh rộng (widening dispersion)

Kỹ thuật thông thường để lắp đặt hệ thống với phương pháp cạnh nối với cạnh (side by side) của một nhóm thùng loại toàn dải (full-range) để đạt được độ phân tán rộng theo hướng ngang. Ghi nhận rằng, những thùng này được sắp đặt trên một cung tròn. Sự sắp đặt này nhằm tạo sự chuyển dịch thật nhẹ nhàng giữa đặc tính phát sóng âm của từng thùng với chiếc loa kế cận, tái tạo lại âm thanh của một thùng đơn trên một góc độ rộng. Về phương vị của trục đứng, chỉ tương đương góc phát của một thùng đơn riêng lẻ. Cách lắp đặt này không tạo hiệu quả bao phủ âm thanh trên trục đứng. Khi có nhiều chiếc loa được sắp hàng như thế, người ta gọi là một cụm loa “Clustet”. Cách sắp xếp theo hình trên có thể dễ nhạy cảm trong một vùng hẹp về phương vị nằm ngang ở một vài tần số khi so sánh độ dài của sóng âm với tổng chiều dài ngang của cụm loa. Nếu thùng là loại dùng phát dãy tần toàn dải (full-range) có thể có ít ảnh hưởng do hiệu ứng giao thoa xảy ra ở các vùng tần số trung, tuy nhiên ảnh hưởng này cũng nhẹ nhàng và coi như vô hại.

Chú ý: Không nên sắp xếp các loại thùng có cấu trúc hình khối chữ nhật theo cách cạnh sát cạnh sẽ tạo ra sự giao thoa rất mạnh mẽ trên một khu vực rộng, sự giao thoa này tạo cảm giác rất khó chịu ảnh hưởng nhiều đến chất lượng của âm thanh phát, như hình dưới.

Sự phân tán âm thanh theo trục đứng góc phân tán hẹp (narrowing dispersion)

Góc phân tán hẹp được yêu cầu thực hiện khi tình hình địa thế có chiều ngang tương đối hẹp và cần có độ xuyên thấu dài với nguồn âm thanh phát ra từ một hướng. Một lỗi thông thường nhất là chia âm thanh với các loa còi tần số cao có góc phân tán hẹp để có độ xuyên thấu xa đi kèm với loa trầm có góc phân tán rộng (không có độ bao phủ xa). Khi các loa trầm phải bao phủ một khu vực rộng hơn các loa tần số cao, âm thanh từ các loa bổng có khuynh hướng chiếm ưu thế hơn ở những khu vực xa và âm thanh trở nên không trung thực. Để tránh hiệu ứng trên, góc phủ theo trục đứng của sub trầm cần phải được thu hẹp lại. Một phương pháp thực hiện là dùng hệ thống sub trầm dạng còi (bass-horn) sẽ đạt được hướng tính mạnh hơn là dùng các sub trầm đóng theo lối cổ điển có màng rung trực tiếp ra không khí (thùng kín có màng rung trực tiếp ra không khí). Hình vẽ minh họa chồng một cặp thùng toàn dải có cấu tạo bao gồm một bass có ống thoát hơi, một mid, và treble có họng còi phân tán hẹp. Khi chồng một cặp thùng như vậy với nhau, người ta đặt các loa treble đi gần sát với nhau nhằm thu hẹp góc phát, ở các tần số thấp âm thanh cũng được thu hẹp lại và được cân bằng đồng đều.

Kỹ thuật bảo quản

Phải đặt loa ở nơi khô ráo, không có bụi bặm, nhiệt độ không cao, ẩm thấp dễ làm hỏng màng rung, gỉ cuộn dây, gỉ các thỏi sắt dẫn từ lực. Nếu để bụi lọt vào khe từ sẽ cản trở sự dao động của cuộn dây làm cho tiếng bị rè, méo… nhiệt độ cao làm giảm từ tính của nam châm, phải có màn chắn bảo vệ để tránh chuột, gián cắn rách màng rung. Không cắm nhầm loa vào ổ cắm điện sẽ bị cháy, muốn thử phải dùng pin hoặc đồng hồ đo.

Comments


bottom of page