Máy ghi âm tương tự – Máy ghi âm kỹ thuật số
- Thanh ÂM
- Apr 26, 2018
- 5 min read
Máy ghi âm tương tự

Phân loại
Căn cứ vào tính năng kỹ thuật và lĩnh vực sử dụng ứng với các chỉ tiêu chất lượng kỹ thuật người ta phân chia máy ghi âm từ tính chuyên dụng thành hai nhóm:
Nhóm I (ứng với các máy ghi âm tĩnh tại hay còn gọi là máy ghi âm studio) được sử dụng trong các studio để ghi nhạc, ghi lời trong các điều kiện cố định.
Nhóm II (ứng với các máy ghi âm lưu động hay còn gọi là máy ghi âm phóng viên) được sử dụng trong các điều kiện lưu động (lắp đặt trên xe ô tô hoặc trang bị cho phóng viên). Được sử dụng để ghi nhạc, ghi lời trong các điều kiện phải đi lưu động.
Trong nhóm hai, do chỉ tiêu chất lượng khác nhau người ta còn chia thành hai nhóm nhỏ đó là:
Nhóm II-A cho các máy ghi âm có tốc độ dẫn băng bằng 38,1cm/s; 19,05cm/s và 9,53cm/s dùng để ghi âm nhạc trong điều kiện lưu động.
Nhóm II-B có tốc độ dẫn băng 19,05cm/s; 9,53cm/s dùng cho phóng viên thu phỏng vấn lưu động. Cả hai nhóm đều được thực hiện theo kiểu mono hoặc stereo.
Nguyên lý cấu tạo
Khối cơ khí dẫn băng (CKDB) trong khối này bao gồm phần cơ khí dẫn băng và bộ phận đầu từ. Bộ phận chủ yếu (động lực) tạo ra sự dẫn băng là động cơ điện. Tùy thuộc vào số động cơ được sử dụng trong CKDB người ta phân loại có 3 loại cơ khí dẫn băng:
Cơ khí dẫn băng (CKDB) dùng ba động cơ riêng rẽ: 1 động cơ chính tạo tốc độ dẫn băng ổn định (thường còn gọi là động cơ tốc độ) và hai động cơ cuốn băng trực tiếp đỡ mâm băng trái và phải. Khối cơ khí dẫn băng loại này có các đặc tính kỹ thuật tốt nhất, tốc độ dẫn băng ổn định cao, tin cậy, giá thành cao. Thường người ta sử dụng các động cơ làm việc bằng dòng điện xoay chiều. Động cơ chính thường dùng là động cơ đồng bộ có đặc điểm tính tải cứng. Động cơ đồng bộ là động cơ có tốc độ vòng quay trùng với tốc độ biến thiên của từ trường. Các động cơ cuốn băng, người ta sử dụng động cơ không đồng bộ có đặc tính tải mềm. Loại ba động cơ dùng cho máy ghi âm chuyên dụng tĩnh tại như máy STM600 (610)
Loại thứ hai là loại dùng hai động cơ: 1 động cơ làm nhiệm vụ tạo tốc độ dẫn băng, động cơ khác làm nhiệm vụ cuốn băng. So với loại thứ nhất các tham số kỹ thuật kém hơn, tin cậy thấp hơn, giá thành rẻ hơn.
Loại thứ ba dùng 1 động cơ làm tất cả các chức năng: loại này khi thay đổi trạng thái phải qua các bộ phận chuyển đổi trung gian dây curoa hoặc bánh răng…Loại này thường sử dụng trong các máy dân dụng, hoặc các máy lưu động có các yêu cầu kỹ thuật thấp hơn, giá thành còn rẻ hơn nhiều.
Nguyên lý từ tính
Nguyên lý ghi âm từ tính là dựa vào hiện tượng từ dư trên băng từ sau khi từ trường ngoài tác động đã bằng không. Cụ thể ở chế độ ghi, khi có dòng điện âm tần chảy qua cuộn dây sẽ hình thành nên dòng từ khép kín trên đầu từ ghi, dòng từ này sẽ được cảm ứng lên băng từ và tạo thành các vệt từ. Các vệt từ sẽ được lưu lại trên băng và đó chính là tín hiệu âm thanh đã được ghi trên băng từ dạng từ tính. Ở chế độ đọc quá trình xảy ra ngược lại.
Máy ghi âm kỹ thuật số
Máy ghi âm kỹ thuật số là thiết bị dùng để ghi âm thanh, lưu trữ âm thanh dưới dạng tín hiệu số. Các máy ghi âm kỹ thuật hiện tại được dùng rất phổ biến vì quy trình ghi đơn giản, lưu trữ có thể trên đĩa, ổ cứng, …tiện lợi khi sử dụng và ghi đọc. Ví dụ máy ghi âm loại CD… Sơ đồ khối máy ghi âm kỹ thuật số loại CD có thể mô tả như sau:

Trong đó:
Khối tín hiệu audio – có nhiệm vụ tạo nguồn tín hiệu theo tiêu chuẩn tương tự, hoặc lấy từ các băng từ, máy ghi âm, khuếch đại…
Khối khuếch đại âm tần – có nhiệm vụ khuếch đại tín hiệu lớn lên về mặt biên độ để cung cấp cho bộ biến đổi A/D.
Khối chuyển đổi A/D (số hoá tín hiệu) – chuyển từ tín hiệu âm thanh tương tự sang tín hiệu âm thanh số.
Khối điều chế FM (biến điệu mã xung) – điều chế số tín hiệu âm thanh theo kiểu điều biến xung mã.
Khối biến đổi điện quang – chuyển từ tín hiệu điện sang tín hiệu quang bằng phương pháp điều chế quang.
Khối phát quang tạo ánh sáng Laser – tạo ra chùm sáng đơn sắc dùng để quang khắc lên đĩa CD.
Khối phản xạ quang – tạo ra chùm tia đơn sắc bằng hệ thống hội tụ tia sáng.
Khối biến đổi quang điện – biến đổi tín hiệu quang thành tín hiệu điện bằng phương pháp giải điều chế quang.
Khối giải mã EFM – giải điều chế số tín hiệu âm thanh.
Khối chuyển đổi D/A–chuyển từ tín hiệu số âm thanh thành tín hiệu âm thanh tương tự.
Khối khuếch đại công suất – khuếch đại tín hiệu âm thanh tương tự dưới dạng dòng điện đủ lớn đưa ra loa.
Loa – phát ra âm thanh
Xuất phát từ nguồn tín hiệu âm thanh tương tự, các nguồn tín hiệu này khuếch đại và sau đó chuyển đổi A/D – số hóa từ đó tạo thành nguồn tín hiệu dạng số 0 và 1. Các tín hiệu này thông qua bộ điều chế rồi được chuyển thành tín hiệu quang. Sử dụng hệ thống thấu kính chuyển thành một tia hoặc ba tia, sau đó rọi lên bề mặt đĩa. Các tín hiệu này lưu lại trên đĩa dưới dạng lỗ, vệt. Để đọc lại thì thu ánh sáng phản hồi từ bề mặt đĩa qua bộ phận cảm biến, giải mã và chuyển đổi D/A sau đó khuếch đại và ra tải.
Đặc điểm:
Có dung lượng lớn,dò tìm và xử lý nhanh, giảm mài mòn cơ học đầu từ.
Báo được các thông tin về đĩa, sao chép nhiều bản mà không thay đổi chất lượng.
Quá trình ghi đọc có thể bị vấp, dừng và quay ngược về đầu.
Có thể mất hết thông tin nếu đĩa bị xước, sứt hoặc vỡ.

Đĩa CD có cấu tạo hình tròn, đường kính 120mm, độ dày 1,2mm. Tâm đĩa đục lỗ đường kính 15mm. Từ 30 – 45mm là vùng kẹp đĩa, từ 46 – 112mm là vùng chứa dữ liệu âm thanh và được chia thành 2 vòng. Từ 113 – 119 là vùng dẫn xuất ghi các thông tin về thời gian. Tín hiệu được ghi một mặt từ trong ra ngoài. Bên trong quay với tốc độ 500 vòng / phút, bên ngoài quay với tốc độ 200 vòng / phút. Tín hiệu âm thanh trên đĩa chỉ chiếm khoảng 33% số bit, 67% số bit còn lại bao gồm các bit điều chế, bít chẵn lẻ, bit đồng bộ, bit kết hợp và bit mã phụ. Tất cả được nhập lại trong quy trình mã hóa trước khi thực hiện việc sao chép. Việc bố trí các bit có thể mô tả như hình vẽ.

Comments